Nghệ thuật là tấm gương phản chiếu lịch sử, nghệ thuật tạo hình chính là bộ mặt của tấm gương ấy. Mặt gương phẳng sẽ cho chúng ta thấy những hình ảnh trung thực về đời sống văn hoá và xã hội đương thời. Trái lại, mặt gương không phẳng sẽ làm méo mó bộ mặt của lịch sử. Nghệ thuật tạo hình thời Đông Sơn cho ta nhìn thấy và cảm nhận được sự vĩ đại của nền văn hoá Đông Sơn. Nghệ thuật tạo hình Lý, Trần, Lê, Nguyễn… cho ta những minh chứng lịch sử của mỗi triều đại phong kiến.
Nghệ thuật tạo hình đương đại Việt Nam cho thấy gì? Đến nay vẫn chưa ai dám kết luận. Nhưng có một điều dễ nhận thấy là quá trình toàn cầu hoá đã và đang có ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ đến đời sống nghệ thuật của công chúng. Đứng trước thực tế này, việc dạy và học mỹ thuật ở Việt Nam hiện nay, nếu không có một định hướng đúng đắn thì chúng ta sẽ trở thành những cỗ máy sao chép nghệ thuật nước ngoài. Và nếu thực tế này xảy ra thì chúng ta sẽ trở thành “nô lệ” của chúng. Những tranh chép, tranh nhái, mái nhà Pháp, chóp nhà Hồi giáo … trong mỹ thuật và kiến trúc đương đại chính là những sản phẩm “nô lệ” của nghệ thuật nước ngoài được sản sinh trong quá trình toàn cầu hoá.
Vấn đề nghiên cứu lý luận
Hồ Chủ tịch nói: Thực tiễn mà không có lý luận là thực tiễn mù quáng, lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông. Thực trạng về lý luận mỹ thuật ở Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua không có bước tiến nào đáng kể, nếu không nói là chúng ta đang “dậm chân tại chỗ” hoặc “đi thụt lùi”. Các hoạ sĩ tiền bối của Việt Nam như Trần Văn Cẩn, Nguyễn Văn Y, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Đăng Trí… không chỉ là những nghệ sĩ tài năng mà còn là những nhà lý luận xuất sắc. Những bài báo, những tác phẩm nghiên cứu phê bình của các ông cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, và đó là một phần của việc định hướng nghệ thuật cho các hoạ sĩ trẻ và sinh viên các thế hệ kế tiếp. Vậy mà cho đến nay, việc viết bài cho các báo và các tạp chí của các hoạ sĩ trẻ và sinh viên chỉ như “sao buổi sớm”, như “lá mùa thu”, còn viết sách thì hầu như không có. Thực trạng lười học, ít đọc và viết của sinh viên mỹ thuật hiện nay là một hồi chuông báo động cho nền nghệ thuật hàn lâm của nước nhà.
Nhìn ra thế giới chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những hoạ sĩ vĩ đại như Leonard de Vinci (Italia), Tề Bạch Thạch, Từ Bi Hồng (Trung Quốc), Rembrandt, Van Gogh (Hà Lan),… không chỉ là những hoạ sĩ thiên tài mà còn là những nhà nghiên cứu tâm huyết, hơn thế, họ còn là những nhà bác học thực sự. Leonard de Vinci chính là một nhà bác học với nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị. Đặc biệt, mô hình “cỗ máy biết bay” mà ông vẽ ra từ thế kỷ XVI đã là tiền đề để những chiếc máy bay ngày nay “đi lại” trên bầu trời. Điều đó cho thấy nghệ thuật hàn lâm chỉ có thể là nơi ra đời của các tác phẩm đã được dày công nghiên cứu. Mọi sản phẩm được “sản xuất” một cách nhanh chóng và rẻ tiền không thể khoác chiếc áo hàn lâm cho dù chúng được đặt những cái tên thật kêu như ấn tượng, trừu tượng hay siêu thực…
Ở nước ta, việc dạy và học lý luận nghệ thuật tạo hình bị coi nhẹ đến mức: Một trong hai trường mỹ thuật hàng đầu của cả nước là Đại học Mỹ thuật công nghiệp (tức Trường Quốc gia Mỹ nghệ xưa) cho tới đêm trước thế kỷ XXI, không hề có khoa lý luận. Một số người thành đạt trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận ở trường này như Nguyễn Văn Y, Trần Khánh Chương, Lê Thanh Đức, Lê Huy Văn, Nguyễn Duy Lẫm… đều do tự học. Một trường mỹ thuật hàng đầu khác là Mỹ thuật Hà Nội (tức Mỹ thuật Yết Kiêu) hàng năm chỉ đào tạo vài sinh viên lý luận đếm trên đầu ngón tay. Vậy mà, nhiều người trong số đó khi ra trường lại phải làm đồ hoạ hay trang trí nội thất để kiếm sống vì “làm lý luận không đủ sống”. Trong khi việc dạy và học lý luận bị coi nhẹ như vậy thì vẫn còn một chút may mắn là một số hoạ sĩ do tâm huyết với nghề mà kiêm luôn cả phần lý luận. Những đóng góp đó là rất quan trọng vì bản thân họ không chỉ nắm vững lý luận mà còn là những người đã kinh qua thực tiễn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu lý luận này chưa đủ lớn để định hướng cho nền nghệ thuật đương đại và chưa đủ tầm để đưa nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Sẽ không thừa nếu phải nói lại rằng: vai trò của lý luận là vô cùng quan trọng. Trước hết, nó chỉ ra cho công chúng thấy những sự thật của lịch sử. Thứ hai, nó cho người nghệ sĩ thấy anh ta là ai? đang làm gì? Thứ ba, nó cho thế giới biết nền nghệ thuật của chúng ta đang ở đâu trong thế giới nghệ thuật mênh mông này. Một sự thật nực cười đã xảy ra là trong nhiều từ điển nghệ thuật của thế giới, phần giới thiệu về Singapore (một trong những quốc gia non trẻ và “nghèo” truyền thống văn hoá nhất ở Đông Nam Á) luôn dài hơn Việt Nam, chỉ vì chúng ta có quá ít công trình lý luận được xuất bản so với Singapore, và lại càng ít hơn các tác phẩm bằng tiếng nước ngoài (!). Nhiều sinh viên mỹ thuật ở ta có thể nói vanh vách về đặc trưng nghệ thuật Hy Lạp, La Mã, Trung Hoa, Nhật Bản… trong khi đặc trưng nghệ thuật Việt Nam là gì thì không phải ai cũng trả lời được. Đó chính là một lỗ hổng lớn của công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta cần được “vá kín” trước khi nó trở thành một “chiếc thùng rỗng đáy”. Việc cần phải có một đội ngũ các nhà lý luận phê bình chuyên nghiệp và những tác phẩm lý luận tầm cỡ hiện nay là vô cùng cần thiết. Vậy ai sẽ là người thực hiện phần việc vinh quang nhưng vô cùng khó khăn gian khổ này? Xin trả lời là tất cả các hoạ sĩ, các giảng viên, các nhà nghiên cứu và sinh viên đều có thể làm được công việc này (xin lưu ý là những ý tưởng của sinh viên rất quan trọng, một trong những phát minh vĩ đại của thế kỷ XX - tia la-ze (laser) - là ý tưởng từ luận án của một sinh viên ở một trường đại học của Mỹ). Cũng cần phải nói thêm rằng, một nhà lý luận phê bình chuyên nghiệpkhông phải là người không biết sáng tác nghệ thuật. Ngược lại, một hoạ sĩ hay một nhà điêu khắc chuyên nghiệp vẫn có thể là một nhà lý luận chuyên nghiệp nếu anh ta thực sự tâm huyết với cả hai phần việc: Lý luận và sáng tác.
So với các ngành khoa học và nghệ thuật khác ở nước ta như toán, lý, hoá, sinh vật, âm nhạc… thì lý luận mỹ thuật là một trong những bộ môn khoa học chậm tiến nhất cả về số lượng cũng như chất lượng. Trong khoảng giữa thế kỷ XX, Việt Nam là một trung tâm lớn về nghiên cứu, đào tạo khoa học và nghệ thuật của cả Đông Dương và Đông Nam Á. Thế nhưng cho tới nay, chúng ta đã bị tụt lại khá xa sau Thái Lan, Singapore, Malaysia, thậm chí sắp tụt lại sau cả Indonesia và Campuchia (!). Đơn cử một ví dụ của Singapore (số liệu năm 2006), một quốc gia với 7 triệu dân mới tách ra từ Malaysia năm 1965, họ có một Học viện Mỹ thuật với bốn trường: Trường Nghệ thuật thị giác (1500 sinh viên); Trường Nghiên cứu thời trang (1500 sinh viên)… Trong khi ở ta, gộp cả hai trường mỹ thuật hàng đầu mỗi năm chỉ lấy vào hơn 100 sinh viên trong đó chỉ có không tới 5 sinh viên lý luận (!).ấy là về số lượng, còn về chất lượng thì việc nhiều sinh viên lý luận không kiếm được việc làm đã chứng tỏ chất lượng đào tạo của ta. Trong khi nhiều ngành khoa học và nghệ thuật khác ở nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn như toán, lý, hoá, âm nhạc, múa… ở tầm quốc tế thì mỹ thuật vẫn loay hoay với những tìm tòi không có lối thoát. Đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn thẳng vào chính mình, cần phải chỉ ra đâu là những sự chậm tiến, yếu kém để khắc phục. Việc nhận lỗi đã khó, việc sửa lỗi lại càng khó hơn và tốn nhiều thời gian hơn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải cố gắng làm việc này càng sớm càng tốt, để nền mỹ thuật nước nhà không bị tụt hậu quá xa và những người làm nghệ thuật ở ta không bị biến thành “nô lệ” cho nghệ thuật nước ngoài. Những công việc này đòi hỏi tâm huyết của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và sự giúp đỡ của tất cả các nhà sáng tác.
Vấn đề thực tiễn
So với lý luận, vấn đề thực hành có vẻ như dễ thực hiện hơn. Thế nhưng vấn đề này thực sự không dễ hơn một chút nào. Trên thực tế, đã có những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao ra đời nhưng tác giả của chúng lại không hề biết đến lý luận nghệ thuật là gì (!). Chẳng hạn như tranh dân gian Đông Hồ hay tượng nhà mồ Tây Nguyên… Những tác phẩm này ra đời một cách “hồn nhiên” như những bức tranh của cac em thiếu nhi vậy. Tuy nhiên, nếu những nghệ sĩ dân gian này được chọn đi học ở một trường nghệ thuật hàn lâm thì tính hồn nhiên trong các tác phẩm của anh ta sẽ biến mất, mà thay vào đó là tính hàn lâm và cá tính của tác giả. Tới lúc này, các tác phẩm của anh ta có thể vẫn mang một vẻ “ngây ngô” nào đó nhưng là sự ngây ngô có chủ định và các tác phẩm này khác hẳn với các tác phẩm dân gian do chính anh ta tạo ra trước khi đi học. Loại tác phẩm này có thể nhận thấy rất rõ ở các bức điêu khắc của Đinh Rú hay “gốm Nhung”… một số nghệ sĩ nổi tiếng đương đại. Vì vậy, chúng ta không nên so sánh vẻ đẹp của các tác phẩm nghệ thuật dân gian với các tác phẩm nghệ thuật hàn lâm vì đó là hai vẻ đẹp hoàn toàn khác nhau. Một nghệ sĩ hàn lâm trở lại chế tác đồ thủ công mỹ nghệ cũng giống như một người lớn tuổi tập nói bi bô hay một con trâu “cưa sừng làm nghé”!
Trở lại vấn đề thực tiễn mà chúng tôi đã đặt ra, đây là vấn đề trong cả dạy, học và hành nghề mỹ thuật ở Việt Nam. Thực tế mà sinh viên của một trường đại học nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói riêng tối thiểu cần phải kinh qua gồm các bước sau:

Phần lý luận, như đã trình bày ở trên, sinh viên của chúng ta rất yếu, trong khi giảng viên vừa yếu lại vừa thiếu. Phần thực hành, sinh viên chỉ được làm rất ít do thiếu thốn về vật chất, mặc dù phần này có nhiều giảng viên giỏi. Phần nghiên cứu, đây là phần việc quan trọng nhất của sinh viên ở các trường quốc tế, trong khi ở ta hầu như bị bỏ qua. Phần sáng tác, đây có lẽ là phần việc được ưa thích nhất của cả giảng viên và sinh viên ở các trường nghệ thuật của ta, tuy nhiên, hiệu quả không cao của công việc này đã cho thấy sự thiếu hụt năng lực nghiên cứu (một công việc tiền sáng tác) của cả giảng viên và sinh viên. Tác phẩm sáng tác không phải là công việc cuối cùng của một nghệ sĩ mà từ những tác phẩm này tác giả cần rút kinh nghiệm bằng lý luận để các tác phẩm tiếp theo của anh ta có chất lượng cao hơn. Đây chính là phần lý luận bắt buộc với tất cả các nhà sáng tác. Có thể thấy rằng, từ sáng tác đến lý luận là một bước chuyển vô cùng quan trọng, một sự “phủ định của phủ định” để phát triển lên một mức độ cao hơn nhưng lại rất ít giảng viên quan tâm tới chứ chưa nói đến sinh viên. Vì vậy, công việc sáng tác của nhiều người thường chỉ là sự vận động nội thân. Thậm chí với nhiều người, tác phẩm tốt nghiệp của họ luôn luôn là một “đỉnh cao” (!). Đỉnh cao ảo tưởng này đã hạn chế óc sáng tạo của chính anh ta và “bóp chết” tài năng của anh ta, cho dù anh ta là một người có thực tài.
Rõ ràng, nền mỹ thuật của chúng ta đang bước đi với một trạng thái “dò dẫm”, mạnh ai nấy bước và điều tất yếu là dễ giẫm vào chân nhau trong khi còn đang có nhiều chỗ “chưa ai rờ tới”. Thực trạng này xảy ra do thiếu lý luận và nghiên cứu - hai trong bốn công việc quan trọng cần phải làm. Thực tế là chúng ta đang mất phương hướng và loạn “trường phái”. Trong một bối cảnh như vậy, những khách hàng nghệ thuật đã chọn một “giải pháp an toàn” là quay trở về với nghệ thuật dân gian truyền thống. Đáng lo ngại hơn khi mà chúng ta có thể đánh mất thị trường nghệ thuật vào tay Thái Lan, Singapore, Malaysia hay Indonesia - những quốc gia láng giềng đã và đang nổi lên mạnh mẽ.
Có thể nói, việc định hướng cho sáng tác là một công việc vô cùng quan trọng nhưng cũng vô cùng khó khăn. Muốn làm được điều đó, chúng ta phải gắn kết được: Lý luận - thực hành - nghiên cứu - sáng tác. Nói một cách tóm tắt là “học phải đi đôi với hành” (HCM). Nói thì dễ nhưng làm thì rất khó. Tuy vậy, không phải là không làm được. Việc định hướng cho sáng tác ở một số ngành nghệ thuật khác ở ta như âm nhạc, văn học, sân khấu… đã và đang thu được những kết quả khả quan, lẽ nào mỹ thuật không thể làm được! Theo chúng tôi, việc định hướng cần phải có một lộ trình cụ thể như:
- Phải thống nhất về mặt quản lý như đặt các trường nghệ thuật dưới sự quản lý của Bộ Văn hoá - Thông tin, chứ không nên để một trường như trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp là “con lai” của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Phải đầu tư cơ sở hạ tầng vì đặc thù của các trường nghệ thuật không chỉ có sách - vở - bút - mực, mà còn cần rất nhiều đến hoạ phẩm, phòng thực hành, trại sáng tác;
- Phải xây dựng nền tảng khoa học như đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ giảng viên. Trong điều kiện của ta thì giải pháp gửi đi du học dường như là một biện pháp khả thi nhất. Bên cạnh đó, cần phải có những phòng - ban đặc trách về nghiên cứu khoa học;
- Phải phối hợp liên ngành giữa nghệ thuật học với các ngành khoa học khác như kiến trúc, dân tộc học, xã hội học, văn hoá học;
- Phải mở rộng hợp tác quốc tế thông qua các chương trình trao đổi văn hoá cho giảng viên và sinh viên. Để từ đó có thể tiếp cận với nền nghệ thuật thế giới;
- Phải mở rộng quy mô đào tạo để từ đó có thể dễ dàng chọn ra nhiều sinh viên xuất sắc hơn làm nguồn cho công tác giảng dạy sau này…
Trên đây chỉ là những gợi ý theo chủ quan của chúng tôi. Các trường đại học, các cơ sở đào tạo có thể có nhiều hơn những phương án thực hiện, miễn sao chúng ta có thể đi đến một cái đích cuối cùng là đưa nền mỹ thuật Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới.
Cuối cùng, cũng cần phải nói rõ thêm một điều, “căn bệnh hình thức” cùng với thói tự tôn và sự tâng bốc thái quá đã khiến cho chúng ta phải trả giá bằng sự tụt hậu của chính mình so với nghệ thuật thế giới và các ngành khoa học - nghệ thuật khác ở trong nước. Có thể thấy, sự tự tôn, tự cao, tự hào hay tự mãn giống như một loại ma tuý hay một loại rượu cực ngon. Nếu nếm một chút thì thấy sảng khoái, rạo rực những nếu sử dụng quá liều, nó sẽ đưa chúng ta đến những ảo giác phi thực tế và sẽ rước lấy tai họa. Nhiều nghệ sĩ của chúng ta hiện đang ở trạng thái “thăng thiên” khi đã bị tán tụng quá lời. Điều đó cũng giống như việc họ đã sử dụng ma tuý hay rượu mạnh quá liều.
***
Giờ đây, đứng trước những cơ hội cũng như những thách thức mà quá trình hội nhập quốc tế đã và đang diễn ra, mỗi người nghệ sĩ cần phải tự trang bị cho mình hành trang để bước vào thiên niên kỷ mới. Sự lười biếng và thói tự mãn sẽ không có chỗ tồn tại trong một xã hội hiện đại luôn trong trạng thái vận động. Đánh giá về mỹ thuật đương đại Việt Nam, nhà nghiên cứu mỹ thuật Bùi Như Hương cho rằng: “Mỹ thuật Việt Nam đang rất thiếu các nghệ sĩ - trí thức có tố chất văn hoá toàn diện, thiếu các tác phẩm có giá trị nhân văn tư tưởng cao. Sự thiếu hụt này không nên đổ lỗi tất cả cho nhà trường, càng không thể trông chờ vào sự đầu tư tiền bạc “màu nhiệm” từ bên ngoài mà trước hết chỉ có thể tự bù đắp bằng ý thức không ngừng tu dưỡng bản thân, nâng cao nhân cách và trách nhiệm xã hội của mỗi người khi muốn trở thành nghệ sĩ đích thực”. Suy cho cùng thì tri thức mà mỗi con người có được, trước hết là ở chính ý thức cầu tiến của bản thân họ. Mà điều này thì không thể chờ đến khi được dạy ở trường (!).
Đinh Hồng Hải
Văn nghệ trẻ, số 26, ngày 25/6/2006
Nguồn:
https://www.academia.edu/3407387/d_y_va_h_c_m_thu_t_vi_t_nam_trong_xu_th_h_i_nh_p_th_gi_i_arts_teaching_and_learning_in_vietnam_during_international_integration_