Nữ sĩ, hiệu Hồng Hà nữ sĩ, con Đoàn Doãn Nghi và Võ thị, em danh sĩ Đoàn Doãn Luân.
Tổ quán vốn ở xã Hiến Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (t.Bắc Ninh). Sau, bà và mẹ về ở với anh ở huyện Đường Hào, tỉnh Hải Duơng.
Năm 16 tuổi, Thượng thư Lê Anh Tuấn muốn xin bà làm con nuôi để tiến vào làm phi tần trong cung, nhưng chỉ ở ít lâu bà xin về. Cùng với anh cần cù học tập trở nên người sành văn chương.
Năm Kỉ Mùi 1739, trong nước loạn lạc, chợ An Bình và làng Mĩ Thử bị tàn phá, bà từ chức giáo thụ ở cung cấm, về ngụ ở xã Chương Dương dạy học.
Sau bà lập gia đình với tiến sĩ Nguyễn Kiều, người làng Phú Xá, huyện Từ Liêm. Ngày chồng bà lên đường đến nhiệm sở mới (ở Nghệ An) bà mất nhằm ngày 11-9 năm 1746.
Tuơng truyền chính bà đã phiên dịch khúc ngâm chinh phụ của Đặng Trần Côn (nhưng cũng có sách cho rằng bản dịch đó của Phan Huy Ích). Điều biết chắc chắn bà giỏi văn chương, có nhiều thơ văn xướng họa với anh, với chồng khá nhiều, nhưng phần lớn đã thất lạc. Duy còn một bản Tục truyền kì cũng gọi là Truyền kì tân phả (để phân biệt với Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ).
Theo Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại chí q.45) tập truyện Tục truyền kì gồm 6 truyện: Bích Cầu kì ngộ, Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, Hoành sơn tiên cuộc, An ấp liệt nữ, Nghĩa khuyển khuất miêu.
Nhưng trong Nam sử tập biên q.5 (1724) quả quyết bà Điểm chỉ viết có 3 truyện:
- Hải khẩu linh từ (tức chuyện nữ thần Chế Thắng).
- Vân Cát thần nữ (Liễu Hạnh công chúa).
- An ấp liệt nữ (chuyện Phan thị, vợ thứ của Đinh Nho Hoàn).
Nhân vật lịch sử Việt Nam